CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY (Năm A)

“Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.” (Ga 4, 13-14)

Chủ đề của cuộc trao đổi trong câu chuyện giữa Đức Giê-su và người nữ Sa-ma-ri hiển nhiên liên quan tới “Nước Hằng Sống”, thứ nước mà Người sẽ ban cho các tín hữu qua sứ mạng trần thế của Người. Thế nhưng bản chất của thứ nước đó là gì thì vẫn chưa rõ ràng lắm; nước đó là thứ gì mà, “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”? Cụ thể hơn nữa: Cơn khát mà nước đó vĩnh viễn giải được là cơn khát gì? Nếu nắm được hay trả lời được điều trên tức là ta hiểu được chính sứ mạng đích thực của Đức Giê-su. Để tìm được câu trả lời thỏa đáng, có lẽ ta nên nhìn sâu hơn vào người phụ nữ Sa-ma-ri đang tiến tới bờ giếng Gia-cóp để kín nước: Bà là đối tượng trực tiếp của lời mời gọi: Hãy kín lấy “nước hằng sống”. Cụ thể hơn nữa, trong thâm tâm chị ta đang khát khao điều gì nhất, và đâu là lý do khiến chị ta tin chắc rằng: Ông Giê-su chính là Đấng Ki-tô của chị?

Câu hỏi là: Đối với một phụ nữ “đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” thì điều gì chị ta thực sự khao khát nhất? Một đời sống luân lý hoàn hảo chăng – không dám đâu! Vì trong hoàn cảnh cụ thể của chị, điều này đơn giản là bất khả thi; vả lại xem ra Đức Giê-su cũng không đòi hỏi hoặc quở trách gì chị về điều đó- Người không có lấy một lời đòi chị phải rời bỏ ông chồng hờ. Ngoài tình dục là điều rất tự nhiên của đời sống vợ chồng, người phụ nữ này rất có thể còn đang khao khát một thứ tình yêu thông cảm, chấp nhận, mà chị chưa tìm được nơi bất kỳ ai, kể cả nơi năm ông chồng trước, cũng như nơi người đàn ông chị hiện đang chung sống; điều chị khao khát nhất là được thương cảm bao dung, hay được thứ tha trọn vẹn. Cuộc đối thoại tiếp sau đó cho thấy: Hình như dung mạo Thiên Chúa mà chị đang âm thầm tìm kiếm và mong đợi cũng liên quan tới các khát vọng này. Dầu không phải là nhà thần học để tranh luận vấn đề phải thờ phượng Thiên Chúa nơi nào cho thích hợp nhất; nhưng chị đã thật sự vui mừng khi nghe người lữ hành bên bờ giếng công bố: “Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”; một kiểu thờ phượng sẽ đáp ứng trọn vẹn niềm khát vọng bên trong. Về diện mạo đấng Mê-si-a phải đến cũng tương tự như thế: Khác với quan niệm một đấng Ki-tô thống trị và quyền lực mà giới lãnh đạo vẫn thường phác họa, chị chỉ mong vị đó “khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”, nhất là khi các điều đó đáp ứng được những khát vọng thầm kín nhất. Và một khi phát hiện ra con người mà lòng mình hằng mong đợi: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”, người phụ nữ Sa-ma-ri vội “để lại vò nước, chạy vào thành và nói với người ta; “Đến mà xem; có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là đấng Ki-tô sao?”.

Thế rồi dân thành Xy-kha nghe người phụ nữ loan báo, đã đến gặp và mời Đức Giê-su lưu lại với họ… “và Người ở lại với họ hai ngày”. Trong thời gian đó, chính họ cũng đã, bằng kinh nghiệm bản thân, khám phá ra rằng: Ông Do Thái Giê-su đúng là người có thể ban “nước hằng sống”: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Đối với những tâm hồn chất phác mang trong mình những mảnh đời riêng tư khác nhau (mà người phụ nữ với sáu đời chồng chỉ là một trường hợp điển hình.), thì khát vọng sâu xa nhất của họ sẽ không là gì khác hơn: Một sự cảm thông sâu sắc và một lòng thương xót vô bờ. Họ đã khám phá ra rằng: Ông Giê-su tới từ Na-da-rét đây đúng là người đáp ứng được khát vọng mãnh liệt thầm kín nhất của mình. Và họ sẵn sàng tin theo ông, cho dầu ông có là người xa lạ, là cừu địch của họ về mặt xã hội chính trị. Họ đã khẳng định niềm tin đó một cách thật rõ ràng và chân chất: “Người thật là Đấng Cứu độ!”. Đó là một lời tuyên xưng biểu lộ thái độ hoàn toàn mãn nguyện, tương tự như khi tìm được nguồn nước mát của bao dung và thứ tha giữa cơn khát khô họng trong sa mạc nóng cháy da kéo dài bất tận. Đúng thực, Người là “nước hằng sống”!

Nếu đúng là như thế thì nội dung “nước hằng sống” đã trở nên cụ thể và riêng tư hơn rất nhiều. Mùa Chay chính là thời gian để tôi xác định được cơn khát của riêng mình, đồng thời cũng để tiến dần tới một tuyên xưng xác tín và chân thành hơn: Giê-su quả thật là Đấng ban cho tôi “Nước Hằng Sống”, là Đấng giải được cơn khát khô họng của tôi. Người quả là “Đấng cứu độ” của tôi nữa!

Lời nguyện

Lạy Chúa, con cũng có một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này, khát vọng lớn nhất con có chính là được thứ tha và xót thương; vì cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con không tránh khỏi những khiếm khuyết và tội lỗi. Như người nữ Sa-ma-ri, con xác tín rằng: Chỉ có “nước hằng sống”, tức là lòng từ ái hải hà của Chúa, mới có thể hoàn toàn giải được cơn khát cháy khô họng của con, bây giờ và cho đến muôn đời. Xin cho con xác tín và sống sâu xa cảm nghiệm Tin mừng này luôn mãi. A-men.

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

“Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho con đi.”

error: Content is protected !!