Suy niệm 1: PHẢI TIN NHƯ THẾ NÀO?
“Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại!” Chúng ta vẫn tuyên xưng như thế mỗi lần đọc kinh tin kính. Ki-tô hữu tin chắc một ngày kia mình sẽ được Chúa cho sống lại, cho dầu chưa một ai có kinh nghiệm về điều đó. Niềm tin này về mặt tâm lý thật rất quan trọng, vì trước hết nó có tác dụng kìm hãm con người khỏi một cuộc sống buông thả, sa đọa. Ta vẫn thường tự hỏi, những người tự xưng mình là vô thần là duy vật, nếu quả thực họ xác tín mình như thế, thì động lực nào thôi thúc họ làm lành lánh dữ đây? Thế nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an viết về ông La-da-rô được Đức Giê-su cho sống lại sau bốn ngày đã chôn cất trong phần mộ lại không đơn giản chỉ nhằm minh chứng cho niềm tin rằng con người sẽ được sống lại. Đúng hơn đoạn Tin Mừng buộc mỗi người chúng ta giáp mặt với một vấn nạn còn quan trọng hơn thế nhiều: Tôi có hay không đặt niềm tin trọn vẹn nơi một mình Đức Ki-tô Giê-su là chính nguồn sống và “là sự sống lại”của tôi?
Giống như phần đa các người Do Thái khác, cô Mác-ta tin rằng hết thảy mọi người một ngày kia sẽ sống lại: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Tuy nhiên Đức Giê-su không đòi cô chỉ tin có một điều như thế; khi hỏi: “Chị có tin thế không?” điều Người muốn cô (và mọi tín hữu) phải tuyên xưng là: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”; thoạt nghe có vẻ như cả hai câu nói lên cùng một điều duy nhất, tuy nhiên nhìn kĩ ta mới khám phá ra rằng: Câu Đức Giê-su khẳng định có nội dung khác hẳn với câu Mác-ta tuyên xưng.
Mà quả thực là như vậy! Đáp lại câu hỏi “Chị có tin thế không?” cô Mác-ta đã vội vã sử dụng công thức tuyên tín quen thuộc: “Thưa Thầy, có! Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Cô thành thực tin rằng: Đức Giê-su quả là đấng Ki-tô; và như thế có nghĩa là Người chắc chắn có mọi quyền năng được Thiên Chúa ban cho; rồi cũng chính nhờ quyền năng đó mà Người có thể cứu cậu em La-da-rô mình khỏi chết: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Niềm tin đó tự nó đã cao đẹp lắm, nhưng hình như vẫn còn quá yếu để cô nắm chắc rằng cậu em sẽ được sống lại. Quả vậy, khi Đức Giê-su truyền lăn phiến đá lấp cửa mồ ra, cô còn hớt hải phảng kháng: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày!”. Đối với cô, quyền năng của Thiên Chúa chỉ có thể cứu sống La-da-rô khi chưa chết, chứ không thể làm cho ông anh “đã chết bốn ngày rồi” trỗi dậy. Cho dù Đức Giê-su có quyền năng gì đi chăng nữa, thì cũng chỉ tới mức độ đó mà thôi.
Không thỏa mãn với niềm tin đó, Đức Giê-su khẳng định cách chắc nịch và căn cơ hơn: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống!” Người còn thêm: Ai tin điều đó, tất nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. Cho một kẻ đã chết về thể lý được sống lại thì rõ ràng quyền năng của Thiên Chúa đã được chứng tỏ, còn nếu hoàn lại sức sống thần linh cho một kẻ đã chết trong tội thì lại càng phải biểu lộ vinh quang đó cách rõ rệt hơn (xem Mc 2:9-10)! Thế nhưng không may là thường khi chúng ta lại có ấn tượng ngược lại. Hơn nữa tin rằng Thiên Chúa là đấng hằng sống thì dễ, nhưng nhận biết “Ngài là sự sống lại” thì ta chưa quen… Lý do là vì: Nếu Thiên Chúa là sự sống lại, thì điều đó có nghĩa là: Người phải chết trước đã. Bất kỳ sự sống lại nào cũng đều phải kinh qua sự chết, cũng như bất cứ ai được sống lại về thể lý hay thần linh thì trước hết cũng đều phải kinh qua cái chết thể lý hay tinh thần; khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại”, Đức Giê-su tuyên bố trước cái chết của Người trên thập giá. Dầu là hiện thân của Thiên Chúa hằng sống, thì để là sự sống lại, Người cũng nhất thiết phải kinh qua cái chết; nhất thiết phải tự hủy mình ra như không (xem Pl 2:7), phải bỏ trời xuống thế, phải mang lấy thân phận tội lỗi yếu hèn và nhận lấy cái chết của toàn nhân loại. Ta có thể nói: Qua Đức Ki-tô, chính Thiên Chúa cũng trải qua cái chết; “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ… Ai tin vào con của người thì khỏi phải chết” (Ga 3:16-17; cũng cần xem Ga 5:21.24). Vì là sự sống lại, nên Người không phải chỉ hằng sống và làm cho kẻ khác sống lại, mà chính Người cũng chết và sống lại; do đó sẽ là điều tự nhiên thôi: “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống!”. Điều này chắc chắn Mác-ta đã không hiểu, nhưng Ki-tô hữu chúng ta thì khác; kinh nghiệm hàng ngày cống hiến cho ta muôn vàn dịp để thâm tín điều này, khởi đầu từ lãnh nhận Bí tích Rửa tội nhen nhúm niềm tin sống lại, rồi những lần xưng tội sau những lỗi phạm và sa ngã, trong đời sống mình Ki-tô hữu củng cố không ngừng niềm tin: Đức Ki-tô quả là, và liên tục là sự sống lại của tôi!
Phải, để tin chắc rằng Đức Giê-su chính là sự sống lại của mình, mỗi người chúng ta đều cần có cảm nghiệm tội lỗi, một điều không khó vì trong suốt một đời người chẳng ai mà không có! Mùa Chay gửi tới các Ki-tô hữu sứ điệp: “Hãy sám hối và tin vào Tin mừng!” điều đó có nghĩa là: Nhờ sám hối, tức là từ kinh nghiệm chết trong tội, chúng ta mới có thể tuyên xưng cách mạnh mẽ và tràn trề hy vọng: “Chúa chính là sự sống lại, là Cứu Chúa của con!” Như thế, thập giá và Phục sinh phải là một Tin mừng liên hoàn duy nhất, chết và sống lại chỉ là hai mặt của cùng một lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa đối với con người mà thôi.
Tôi cần học lấy bài học quan trọng này, nhất là vào dịp cuối mùa Chay thánh này: “Nếu cùng chết với Đức Ki-tô, tôi sẽ cùng được sống lại với Người” (xem Rm 6:4).
Lạy Chúa từ nhân, bây giờ thì con mới hiểu: Chỉ có Chúa mới có thể biến kinh nghiệm “chết trong tội” của con thành nguồn sống mới dồi dào; con mới hiểu được sức sống Phục sinh được thánh
Âu-tinh phát hiện trong cái chết của tội lỗi mình, để rồi ngài dám hét to lên: “Ôi tội hồng phúc!”. Xin cho con cũng biết ngợi ca và tôn vinh Chúa không ngừng về “yếu tính” tuyệt vời này của Người. Xin Chúa làm cho đời con, giữa các kinh nghiệm u tối của tội lỗi, luôn tìm thấy nơi Chúa ánh vinh quang bất diệt của sự sống lại. A-men.
Suy niệm 2: THƯƠNG XÓT CÓ SỨC LÀM CHO SỐNG LẠI
Mọi phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện đều là thể theo yêu cầu của người xin; điều kiện duy nhất Người đòi là lòng tin; riêng phép lạ làm cho La-da-rô đã chết và chôn trong mộ đã bốn ngày được sống lại thì hình như từ phía Đức Giê-su đã có một ý đồ dàn dựng nào đó, một dàn dựng phức tạp và khó hiểu; “Bệnh này không tới nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh… La-da-rô đã chết; Thầy mừng cho anh em, vì thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin”. Như vậy, ta có thể nói: Cái chết của La-da-rô là một sự kiện cố tình, một màn dàn dựng có kịch bản dọn trước; thế nhưng chủ đích của màn dàn dựng này là gì, nói cách khác: Đức Giê-su qua phép lạ cả thể này, muốn các môn đệ Người tin vào điều gì? Tôi vẫn thường được nghe giải thích: Phép lạ cả thể này là nhằm chứng tỏ quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa: Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền phép làm cho một người chết đã chôn cất bốn ngày rồi được sống lại! Điều đó là đương nhiên, nhưng chính những lời khẳng định tiếp theo của Đức Giê-su lại cho thấy: Các chi tiết dàn dựng của màn trình diễn công phu chỉ nhằm long trọng tuyên bố một điều chưa ai từng nghe: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết”.
Trước hết, cái “chết và sống” được Đức Giê-su đề cập tới ở đây, không thể chỉ là cái chết và sống thể lý sinh học; bởi vì ngày nay y khoa đã có những bước tiến dài để có thể làm cho một người chết lâm sàng được hồi sinh trở lại, cho dầu điều này hiện vẫn còn là một hiện tượng phi thường hiếm hoi. Mọi người chúng ta đều biết rằng: Mọi phép lạ của Đức Giê-su đều mang một nội dung Tin mừng…, chẳng hạn như khi đứng trước người bị bại liệt, Người nói với anh ta: “Tội con được tha rồi!”. “Tin mừng có sức chữa lành”, đó là điều Đức Giê-su muốn chứng tỏ qua các lần Người chữa bệnh thể lý; tuy nhiên, đây là trường hợp đặc biệt, khi đề tài này được Người đưa ra cách quyết liệt: Tin mừng (là chính Người) có sức làm cho một người đã chết được sống lại, cả về mặt thể lý lẫn trong diện tinh thần, vì thế cho nên Người cần dàn dựng một phép lạ cả thể hầu củng cố cho lời khẳng định thêm vững chắc; “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”. Như vậy thì cái chết của La-da-rô rõ ràng là hình ảnh của thứ tội nặng nề và quyết liệt nhất (the gravest and the most definitive sin), mà ta vẫn quen gọi là tội trọng, hay tội chết (mortal sin). Trước thứ sống / chết này, Đức Giê-su lên tiếng xác quyết: “Ai tin Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”; đồng nghĩa với khẳng định: “Ai tin Thầy thì dù có phạm trọng tội, cũng sẽ được tha”.
Trong cái chết thể lý, kẻ chết chỉ cần tới quyền phép đặc biệt của Thiên Chúa là đã có thể được sống lại; còn trong cái chết của tội, quyền phép thôi chưa đủ, mà còn cần phải có cả một lòng thương xót vô biên. Do đó, câu tuyên xưng của cô Mác-ta, cho dầu có đúng nhưng vẫn không được Phúc Âm Gio-an đề cao cho lắm: “Thưa Thầy, con tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Như nhiều người Do Thái cô mới chỉ nhắc tới quyền phép Đức Chúa ban cho đấng Thiên sai của Ngài. Bài Tin mừng ghi nhận một chi tiết tuy âm thầm nhưng rất sâu sắc: “Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến… Đức Giê-su liền khóc”. Điều này cho thấy: Việc cho La-da-rô sống lại từ cõi chết không chỉ chứng tỏ quyền phép Thiên Chúa, nó còn tỏ lộ sức mạnh của cõi lòng yêu thương rất ư là nhân bản của Đức Giê-su. Nó có mục đích cho thấy vinh quang đích thực của Thiên Chúa là rất tình người, là thật gần gũi, vì đó là vinh quang của lòng từ nhân và hay thương xót. Thiên Chúa của Đức Giê-su đầy tình người và xót thương, chứ không uy nghi đáng sợ như Thiên Chúa của Cựu ước; chỉ có Thiên Chúa từ nhân và giàu lòng thương xót mới có thể là sự sống lại!
Điều vĩ đại trong câu truyện La-da-rô đã chết được cho sống lại này là khẳng định lòng thương xót có khả năng giải thoát loài người khỏi sự chết, khỏi tội chết. Cho tới nay nhiều người vẫn nghĩ là: Lòng thương xót thường chỉ được áp dụng cho những trường hợp nhỏ nhoi nhẹ nhàng; còn lãnh vực sống chết cần phải dành cho công lý, nơi quyền uy thống trị. Có lẽ vì thế mà cô Mác-ta thấy không còn chút hy vọng nào, cho dầu cô biết rằng Đức Giê-su rất mực thương mến gia đình mình: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày!”. Tín thác vào “lòng thương xót vô bờ bến” của Thiên Chúa liệu sẽ dẫn Ki-tô hữu tới đâu; nhiều người tỏ ra hoài nghi; họ chỉ thấy “thương xót” luẩn quẩn trong tha vạ, tha hình phạt, hưởng ân xá…, trong khi thương xót mạnh và quyết liệt tới độ: Thật sự hoàn lại sức sống và hoàn lại cách trọn vẹn, cả trong trường hợp mắc tội trọng hay tội chết; điều này được phép lạ La-da-rô trỗi dậy, sau khi đã chôn cất bốn ngày, là một dẫn chứng. Điều kiện duy nhất để điều này thành hiện thực là: Tin vững chắc rằng “Đức Ki-tô là sự sống lại”. Đức Giê-su đã chằng đòi Mác-ta phải hội được điều kiện duy nhất đó sao: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao”. Và cũng chính niềm tin đó mà Ki-tô hữu chúng ta trong mùa Chay thánh này, được mời gọi vun trồng cho thật vững chắc: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8). Và ai trọn vẹn tin vào Đức Ki-tô Giê-su như thế thì dù đã chết, cả trong những tội nặng nề nhất, cũng sẽ được sống, và còn được sống dồi dào nữa là đàng khác!
Vậy thì đúng là hôm nay Chúa cũng đang gửi tới mỗi chúng ta câu hỏi, như Người đã từng đặt ra cho cô Mác-ta ngày xưa: “Con có tin thế không?”.
Lạy Chúa, con cầu nguyện cho các anh chị em dự tòng, mà trong mùa Chay thánh này, đang cố gắng chuẩn bị đáp lại câu hỏi trên cách trọn vẹn nhất, nhân ngày họ lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Đồng thời xin Chúa cũng ban cho con ơn, để trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống, đặc biệt vào giờ phút lâm chung, cho dầu có yếu đuối rơi vào những sa ngã và lỗi phạm nặng nề nhất, con vẫn có thể tuyên xưng tự đáy lòng mình: “Đức Ki-tô đã chết cho tôi vì yêu thương tôi!”, và tin chắc rằng nhờ đó con sẽ bảo đảm được sống lại cách sung mãn với Người. A-men.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
