ĐỨC GIÊSU KITÔ SỐNG LẠI
1. Chúa hiện ra với bà Maria Mácđala. Đức Giêsu trong cuộc đời chúng ta.
Bà Maria Mácđala trở lại mộ Chúa. Tình cảm và sự tận tụy của bà đối với Đức Giêsu ngay cả sau khi Ngài đã chết thật là cảm động. Bà đã giữ vững lòng trung thành… Trong những giờ phút kinh hoàng trên núi Canvariô, và tình yêu của người phụ nữ đã từng bị bảy quỷ ám vẫn mãi dạt dào ân sủng đã bám rễ và trổ sinh hoa trái trong tâm hồn bà kể từ ngày bà được Chúa giải thoát khỏi sự kìm kẹp của quỷ dữ.
Bà Maria đứng bên ngoài mộ mà than khóc. Một số thiên thần mà bà không nhận ra cất tiếng hỏi vì sao bà khóc Bà nói với các thiên thần: “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu”. Đó là điều duy nhất quan trọng đối với bà trong cả thế giới này. Và đối với chúng ta đó cũng là điều duy nhất cuốn hút chúng ta hơn bất cứ điều gì khác.
Tin mừng tiếp tục thuật lại: “Bà quay lại và thấy đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu”. Bà Maria vẫn chưa hết khóc, vì Chúa không còn ở đó nữa. Và nước mắt cản trở không cho bà nhìn thấy Ngài giờ đây đang ở ngay sát bên mình. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?”. Ở đây chúng ta thấy đức Kitô phục sinh đang mỉm cười thân thiện và nồng hậu. Thế nhưng bà lại nghĩ đó là bác làm vườn, nên mới nói với Ngài: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”.
Chỉ một lời của Đức Giêsu đủ để lau khô dòng nước mắt và làm vơi nhẹ nỗi lòng bà. Đức Giêsu gọi bà: “Maria!”. Từ ngữ ấy mang một âm điệu độc nhất vô nhị mà Chúa Giêsu dành cho từng tên gọi, và tên gọi ấy gắn liền với một ơn gọi, một tình bạn hết sức đặc biệt. Đức Giêsu gọi chúng ta bằng tên và cung giọng của Ngài không thể lẫn vào đâu được.
Giọng nói của Đức Giêsu vẫn không thay đổi. Đức Kitô phục sinh vẫn tiếp tục mang tất cả những đặc tính của Đức Giêsu chịu khổ nạn: giọng nói của Ngài, cung cách bẻ bánh, các dấu đinh trên bàn tay và bàn chân của Ngài.
“Bà quay lại”; bà đã nhận ra Đức Giêsu và sụp lạy dưới chân Ngài và nói bằng tiếng Aram: Rápbuni nghĩa là “lạy Thầy”. Nước mất bà, lúc này chảy giàn giụa như sông như suối tràn bờ, là những dòng nước mắt vui sướng và hạnh phúc. Thánh Gioan chọn ghi lại cho chúng ta nguyên ngữ Do thái – Rápbuni, nghĩa là lạy Thầy – được dùng và đã từng được dùng rất thường xuyên để xưng hô với Đức Giêsu. Đó là một kiểu nói thân mật dùng trong gia đình, chứ không dùng ở bên ngoài. Đức Giêsu không chỉ là một người thầy trong số biết bao người thầy khác, nhưng Ngài là Thầy, người thầy duy nhất có khả năng rao giảng ý nghĩa đích thật của sự sống, người thầy duy nhất có những lời mang lại sự sống vĩnh cửu.
Bà Maria chạy đi tìm các Tông đồ để hoàn thành nhiệm vụ Đức Giêsu đã trao cho, bà bảo họ: “Tôi đã thấy Chúa”. Câu nói của bà phản ánh một nỗi vui sướng lớn lao.
Đức Giêsu thường gọi chúng ta đích danh, với một cung giọng không thể lầm lẫn được. Ngài ở ngay bên mỗi người chúng ta. Ước chi những hoàn cảnh bên ngoài – những dòng nước mắt vì buồn thương, vì thất bại, vì dối trá, vì đau đớn hay thất vọng – không bao giờ cản trở chúng ta nhận ra Đức Giêsu đang kêu gọi mình. Ước chi chúng ta luôn luôn tẩy sạch tất cả những gì có thể khiến cho cái nhìn của mình trở nên u tối.
2. Đức Kitô hiện diện giữa chúng ta.
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng đã làm người trong cung lòng Đức Maria, giờ đây đang ngự trên Thiên đàng cũng với thân xác mà Ngài đã mang lấy khi nhập thể, đã chết trên Thập giá và đã sống lại vào ngày thứ ba. Một ngày kia, cũng như Maria Mácđala, chúng ta sẽ chiêm ngưỡng Nhân Tính Cực Thánh của Chúa, còn trong lúc này chúng ta phải ấp ủ niềm khát khao được nhìn thấy Ngài: “Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm thánh nhan, Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt”.
Bên cạnh đó, Đức Kitô cũng hiện diện thật sự trong thánh Thể. Sự hiện diện của Đức Kitô hằng sống trong bánh thánh là bảo chứng, nguồn mạch và đỉnh cao của việc Ngài hiện diện trong thế giới. Đức Kitô vẫn sống, và Ngài hiện diện trong các bí tích với tất cả quyền năng và sức mạnh. Ngài hiện diện trong Lời Chúa mỗi khi Thánh Kinh được đọc trong Hội Thánh. Ngài hiện diện mỗi khi Hội Thánh cầu nguyện và quy tụ lại nhân danh ngài. Ngài cũng sống trong mỗi Kitô hữu một cách thân mật và sâu sắc. Ngài đã hoàn thành lời hứa với các Tông đồ trong bữa Tiệc Ly: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với Người ấy”. Thiên Chúa cư ngụ trong linh hồn được ơn nghĩa và chúng ta sẽ tìm thấy Ngài ở đó. Thánh Phaolô nói đến sự hiện diện này khi ngài bảo rằng mỗi người trong chúng ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Khi suy niệm về sự hiện diện khôn tả của Thiên chúa trong linh hồn, thánh Augustinô đã phải kêu lên: Con yêu Chúa quá trễ! Ôi Vẻ Đẹp vừa cổ kính vừa mới mẻ làm sao! Con yêu Chúa muộn quá mất rồi! Vì này Chúa ở trong con, còn con thì ở ngoài; và con loay hoay tìm Chúa ở bên ngoài… Chúa ở bên con nhưng con không ở bên Chúa. Con bị kềm giữ xa Chúa bởi những thứ không ở trong Chúa. Chúa đã cất tiếng gọi con và phá vỡ sự u mê của con; Chúa đã chiếu giãi ánh sáng trên con và xua tan sự tối tăm trong con.
Thiên Chúa gần gũi chúng ta hơn cả một người ở sát bên chúng ta, hơn cả một đứa trẻ trong vòng tay yêu thương của mẹ, của anh hay chị; Ngài còn gần gũi hơn cả quả tim của chính chúng ta. Chúng ta đừng từ chối trò chuyện với Ngài.
3. Tìm kiếm và yêu mến Đức Kitô. Tấm gương của Maria Mácđala dạy cho chúng ta rằng ai chân thành tìm kiếm Chúa chắc chắn sẽ gặp được Ngài.
Đức Kitô vẫn sống và bằng nhiều cách khác nhau hiện diện giữa chúng ta và thậm chí trong linh hồn chúng ta. Vì thế chúng ta phải lên đường đi gặp Ngài, và cố gắng ý thức hơn về sự hiện diện khôn tả này, nhờ đó chúng ta sẽ đốí thoại với Ngài nhiều hơn và tình yêu Ngài sẽ lớn mạnh trong chúng ta. Chúng ta phải tìm kiếm đức Kitô qua lời và bánh thánh, trong cầu nguyện và trong Thánh Thể. Chúng ta phải đối xử với Ngài như với một người bạn, như một con người đang sống, vì ngài đã sống lại. Như chúng ta đọc thấy trong thư Do Thái: còn đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem lại ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ (Dt 7,24-25).
Đức Kitô Chúa phục sinh, là bạn và người đồng hành của chúng ta. Người là người đồng hành mà chúng ta chỉ thấy bóng – nhưng thật ra ngài chiếm hết cuộc sống của chúng ta và làm chúng ta khao khát Ngài mãi mãi. Nếu chúng ta chiêm ngưỡng đức Kitô phục sinh, nếu chúng ta cố gắng nhìn ngắm Ngài bằng cái nhìn trong sáng, chúng ta sẽ hiểu một cách sâu sắc rằng ngay lúc này chúng ta cũng có thể theo sát Ngài sống gần gũi Ngài đến mức cuộc đời chúng ta được trải rộng ra và mang một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ.
Nếu làm được như vậy chúng ta sẽ thiết lập được một tương quan ngã vị – một niềm tin yêu – giữa chúng ta với Chúa Giêsu và với người khác. Chúng ta sẽ nhận ra rằng mọi sự làm nên cuộc sống của chúng ta đều lệ thuộc vào Chúa, và chúng ta không thể sống thiếu Ngài được.
Đôi lúc cuộc tìm kiếm Chúa đồng nghĩa với một cuộc tìm kiếm nhẫn nại và gian khổ, bắt đầu đi bắt đầu lại mỗi ngày, thậm chí chúng ta có cảm tưởng mình chỉ mới bắt đầu cuộc hành trình đi vào đời sống nội tâm. Tuy nhiên nếu chúng ta phấn đấu, chúng ta sẽ luôn luôn tiến đến gần Chúa Giêsu hơn. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đừng bao giờ để cho sự tuyệt vọng len lỏi vào linh hồn mình qua các trở ngại, vốn dĩ chỉ hời hợt bên ngoài.
Tấm gương của bà Maria Mácđala, người đã bền bỉ trung thành với Chúa trong những giờ phút thử thách cam go, dạy cho chúng ta biết rằng người nào thành tâm và kiên trì tìm kiếm Chúa Giêsu rốt cuộc sẽ gặp được Ngài. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng sẽ dễ dàng tìm thấy Chúa hơn nếu chúng ta được Mẹ dẫn dắt, đấng mà chúng ta cầu khẩn trong kinh “Kính chào Đức Nữ Vương”: “Xin Bà khấng tỏ ra cho đoàn con được thấy. Quả phúc bởi lòng Bà: Đức Giêsu khả ái”.
(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)
